Thiết kế Prinz Adalbert (lớp tàu tuần dương)

Đạo luật Hải quân thứ hai của Đức thông qua vào năm 1900 cho phép sở hữu một lực lượng mười bốn tàu tuần dương bọc thép nhằm hoạt động tại các thuộc địa của Đức ở nước ngoài. Tuy nhiên, Hải quân Đức cũng đòi hỏi những tàu tuần dương để hoạt động cùng hạm đội, nên dự định thiết kế những con tàu đáp ứng được cả hai vai trò,[1] chủ yếu là do kinh phí bị giới hạn.[2] Chiếc đầu tiên ra đời theo Luật Hải quân 1900, Prinz Heinrich, là phiên bản cải tiến của một tàu tuần dương bọc thép trước đó, Fürst Bismarck, trang bị ít pháo hơn và vỏ giáp mỏng hơn để đổi lấy tốc độ cao và giảm chi phí.[3] Thiết kế tiếp theo, chính là lớp Prinz Adalbert, được chuẩn bị vào các năm 1899-1900,[4] là một sự cải tiến dựa trên Prinz Heinrich. Chúng trang bị bốn khẩu pháo 21 cm (8,3 in) bắn nhanh thay cho cặp pháo 24 cm (9,4 in) chậm hơn trên con tàu cũ.[1] Vỏ giáp có độ dày tương đương như trên chiếc Prinz Heinrich, nhưng được mở rộng hoàn thiện hơn.[5]

Các đặc tính chung

Sơ đồ lớp Prinz Adalbert; vùng xám biểu thị khu vực của con tàu được vỏ giáp bảo vệ

Những chiếc trong lớp Prinz Adalbert có chiều dài ở mực nước là 124,9 mét (410 ft) và chiều dài chung 126,5 m (415 ft), mạn thuyền rộng 19,6 m (64 ft). Các con tàu có trọng lượng choán nước theo thiết kế là 9.087 tấn (8.943 tấn Anh; 10.017 tấn thiếu), nhưng tải trọng tối đa trong tác chiến lên đến 9.875 t (9.719 tấn Anh; 10.885 tấn thiếu), với mớn nước 7,43 m (24,4 ft) phía trước và 7,9 m (26 ft) phía sau. Lườn tàu được cấu trúc từ các khung ngang và dọc, trên đó các tấm thép được bắt vào bằng đinh tán. Các con tàu có mười bốn ngăn kín nước và một đáy kép chiếm 60% chiều dài lườn tàu.[4]

Hải quân Đức xem chúng như những con tàu đi biển tốt, chuyển động nhẹ nhàng khi các hầm chứa than bên dưới được chất đầy. Chúng đáp ứng tốt với việc điều khiển, bị mất cho đến 60% tốc độ khi bẻ lái gắt, nhưng chỉ giảm tốc độ đôi chút khi biển động nặng. Các tháp pháo ụ được bố trí quá thấp khiến bị ướt nước nặng ngay cả khi sóng nhẹ. Chúng có chiều cao khuynh tâm 0,734 m (2 ft 4,9 in).[6] Con tàu có thành phần thủy thủ đoàn gồm 35 sĩ quan và 551 thủy thủ, nhưng khi hoạt động trong vai trò soái hạm hải đội chúng được tăng cường thêm chín sĩ quan và 44 thủy thủ. Chúng mang theo một số xuồng nhỏ, bao gồm hai xuồng gác, một xuồng đổ bộ, một xuồng chèo, hai ca nô, hai xuồng yawl và hai xuồng nhỏ.[7]

Prinz Adalbert và Friedrich Carl được trang bị ba động cơ hơi nước 3 buồng bành trướng đặt dọc; trục giữa dẫn động một chân vịt ba cánh có đường kính 4,5 m (15 ft), trong khi hai trục ngoài nối với chân vịt bốn cánh đường kính 4,8 m (16 ft). Hơi nước được cung cấp từ mười bốn nồi hơi Dürr do hãng Düsseldorf-Ratinger Röhrenkesselfabrik sản xuất. Hệ thống động lực này có công suất 16.200 mã lực chỉ (12.100 kW)[Chuyển đổi: Tùy chọn không hợp lệ] trên chiếc Prinz Adalbert và 17.000 ihp (13.000 kW) cho Friedrich Carl với tốc độ tối đa 20 hải lý trên giờ (37 km/h; 23 mph) và 20,5 kn (38,0 km/h; 23,6 mph) tương ứng. Cả hai con tàu đều đạt được công suất cao hơn khi chạy thử máy, cho dù tốc độ của chúng không được cải thiện đáng kể. Các con tàu được thiết kế để chở theo 750 t (740 tấn Anh; 830 tấn thiếu) than, nhưng có thể tận dụng các khoang trống để chở tối đa 1.630 t (1.600 tấn Anh; 1.800 tấn thiếu), cho phép chúng có tầm hoạt động tối đa 5.080 hải lý (9.410 km; 5.850 dặm) khi di chuyển ở tốc độ đường trường 12 kn (22 km/h; 14 mph). Điện năng được cung cấp bởi bốn máy phát có tổng công suất 246 kilôwatt (330 hp) ở điện thế 110 volt.[4]

Vũ khí

Prinz Adalbert và Friedrich Carl được trang bị dàn pháo chính gồm bốn khẩu 21 cm (8,3 in) SK L/40 trên hai tháp pháo nòng đôi bố trí trước và sau cấu trúc thượng tầng. Chúng được cung cấp tổng cộng 340 quả đạn pháo, tức 85 quả cho mỗi khẩu. Bệ tháp pháo có thể hạ cho đến góc −5° và nâng tối đa đến góc 30°, cho phép bắn đến mục tiêu cách xa 16.300 m (53.500 ft).[4] Kiểu pháo 21 cm bắn ra đạn pháo nặng 238 pound (108 kg) với lưu tốc đầu đạn 780 m/s (2.600 ft/s).[8] Dàn pháo hạng hai của các con tàu bao gồm mười khẩu 15 cm (5,9 in) SK L/40, tất cả đều được bố trí hai bên mạn tàu. Ba khẩu được đặt trong các tháp pháo ụ giữa tàu mỗi bên mạn, với một cặp tháp pháo bên trên chúng. Số vũ khí này được cung cấp tổng cộng 1.400 quả đạn pháo, tức 140 cho mỗi khẩu pháo.[4] Chúng bắn ra đạn pháo nặng 88,2 pound (40,0 kg) với lưu tốc đầu đạn 800 m/s (2.600 ft/s); các khẩu pháo có thể nâng đến góc 30°, cho phép một tầm bắn tối đa 13.700 m (44.900 ft).[8]

Các con tàu còn mang theo mười hai khẩu 8,8 cm (3,5 in) SK L/35 để phòng thủ tầm gần; chúng được bố trí thành nhóm bốn khẩu đặt trên trụ có che chắn. Bốn khẩu được bố trí chung quanh tháp chỉ huy, bốn khẩu chung quanh hai ống khói phía đuôi tàu cùng bốn khẩu khác trên nóc cấu trúc thượng tầng phía sau.[4] Kiểu pháo này bắn ra đạn pháo nặng 15,4 lb (7,0 kg) với lưu tốc đầu đạn 770 m/s (2.500 ft/s); chúng có thể nâng tối đa đến góc 25° và đối đầu mục tiêu cách xa 9.090 m (29.820 ft).[8] Dàn vũ khí của các con tàu được hoàn thiện với bốn ống phóng ngư lôi ngầm 45 cm (18 in), được bố trí trước mũi, sau đuôi và hai bên mạn, và mang theo 11 quả ngư lôi.[4]

Vỏ giáp

Lớp vỏ thép sử dụng cho hai con tàu do hãng Krupp chế tạo. Đai giáp chính bao gồm một lớp gỗ tếch dày 50 mm (2,0 in), phủ bởi lớp thép dày 100 mm (3,9 in) ở phía giữa con tàu vốn bao gồm các khoang động cơ và hầm đạn. Bề dày của đai giáp giảm còn 80 mm (3,1 in) ở cả hai đầu của phần trung tâm, trong khi mũi và đuôi tàu không được bảo vệ. Sàn tàu bọc thép có độ dày 40–80 mm (1,6–3,1 in); đai giáp nghiêng với độ dày 50–80 mm (2,0–3,1 in) nối liền sàn tàu đến đai giáp. Các tháp pháo ụ vốn được bố trí bên trên đai giáp chính, cũng như các tháp pháo 15 cm, được bảo vệ bởi vỏ giáp dày 100 mm (3,9 in). Hai tháp pháo 21 cm có các mặt giáp hông dày 150 mm (5,9 in) và nóc dày 30 mm (1,2 in). Tháp chỉ huy phía trước được bảo vệ bởi các mặt bên dày 150 mm (5,9 in) và nóc dày 30 mm (1,2 in); tháp chỉ huy phía sau được bảo vệ kém hơn với lớp giáp dày 20 mm (0,79 in).[4]